Để có một chiếc máy tính bảng “siêu mỏng” với nhiều tính năng cao cấp như ngày hôm nay, lịch sử máy tính bảng phải trải qua nhiều giai đoạn đầy khó khăn và thử thách. Trở lại hàng chục năm trước đây, những chiếc máy tính bảng đầu tiên là những cổ máy tính khổng lồ và sử dụng bút điện tử để nhập dữ liệu. Nhiều ý tưởng mới đang dần xuất hiện và làm cho chiếc máy tính bảng đầu tiên biến đổi nhỏ dần để thích nghi với xu hướng di động.
Và đến thời điểm hiện nay, chúng ta đã có những chiếc máy tính bảng mà không ai dám mơ về nó ở thập niên 60. Không những thế, nhu cầu của con người ngày càng cao, nhiều công ty đang nổ lực thiết kế để tạo ra những dòng máy tính bảng mỏng hơn, mạnh hơn và đa năng hơn.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng điểm qua các giai đoạn “tiến hóa” của máy tính bảng từ lúc “sơ khai” cho đến nay.
Dynabook (1968)
Ý tưởng đầu tiên về chiếc máy tính bảng được ra đời từ những năm 1960: muốn tạo ra một máy tính có trọng lượng ít hơn 2kg, hoạt động thông qua màn hình cảm ứng với bàn phím nổi và có chi phí khoảng 500USD. Ý tưởng này đã được mô tả chi tiết vào năm 1968 cho một sản phẩm có tên gọi là Dynabook, bởi nhà khoa học máy tính nổi tiếng Alan Kay – người chịu trách nhiệm cho phần giao diện đồ họa, lập trình hướng đối tượng và thiết lập các chi tiết kỹ thuật, đang làm việc tại Trung tâm nghiên cứu Xerox Palo Alto. Đây là ý tưởng về một thiết bị hoàn hảo của thời điểm lúc bấy giờ, nó giúp cho trẻ em có thể tiếp cận với giải trí số dễ dàng hơn, được Kay công bố chính thức trong một bài báo năm 1972 mang tên “A Personal Computer for Children of All Ages” (tạm dịch là Máy tính cá nhân dành cho trẻ em mọi lứa tuổi). Tuy nhiên, do sự hạn chế về công nghệ, thiết bị và phần mềm nên Dynabook chỉ dừng lại ở mức độ ý tưởng.
Apple Bashful (1983)
Apple Bashful được công ty Frog Design thiết kế dựa theo ý tưởng về câu chuyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và 7 chú lùn kết hợp với series Apple IIc– thế hệ máy tính cá nhân thứ tư của Apple. Phiên bản này bao gồm một bàn phím đi kèm, một ổ đĩa mềm được chế tạo nhằm mang đến sự thuận tiện nhất cho người sử dụng. Ngoài ra, Bashful vẫn được kèm theo một cây bút stylus để dễ dàng tương tác với màn hình mặc dù Steve Jobs không thích lắm. Và sau đó gần 30 năm, máy tính bảng được xem là thế hệ kế thừa của Apple Bashful đã xuất hiện, mang tên Apple iSlate.

GRiD Systems GriDPad (1988)
GriDPad có phần giống với mẫu máy Palm, bởi vì nó là một sản phẩm của kỹ sư Jett Hawkins– nhà sáng lập Palm Computing và Handspring. GriDPad là một máy tính bảng sơ khai sử dụng hệ điều hành MS-DOS có màn hình cảm ứng rộng 10 inch làm việc trên hệ thống nhận diện chữ viết tay do Hawkins phát triển, hỗ trợ bút Stylus và thời lượng pin lên tới 3 giờ. GriDPad là thiết bị cầm tay, có giá bán còn đắt hơn cả iPad hiện nay, với cái giá 2370 USD làm cho nhiều người chỉ ước mơ về sản phẩm này.

Wang Laboratories Freestyle (1989)
Wang Laboratories là một công ty máy tính gia nhập thị trường máy tính bảng với một hệ thống sử dụng bút Stylus cho phép người dùng viết nên những ghi chúng bằng giọng nói thông qua chiếc điện thoại của mình và gửi những tài liệu đó qua email. Freestyle cũng là một máy tính bảng sử dụng hệ điều hành MS-DOS, nó bao gồm các thiết bị bút Stylus, card màn hình, phần mềm, cáp, điện thoại, máy fax và máy scan.

AT&T EO (1993)
AT&T EO Personal Communicator là một máy tính bảng chạy trên hệ điều hành PenPoint OS, được tích hợp thêm điện thoại di động, 1 modem, máy fax, micro, lịch, chương trình cơ sở dữ liệu và xử lý văn bản. EO là sự kết hợp của hai công nghệ: hệ điều hành PenPoint OS của hãng GO Corp và bộ vi xử lý AT&T Hobbit. Khi được AT&T mua lại vào năm 1993, EO đã đóng góp đáng kể vào việc giới thiệu bộ xử lý Hobbit đến người dùng. Sau đó, xảy ra một số vấn đề về cạnh tranh và khủng hoảng tiền mặt, GO cũng đã đồng ý trở thành thành viên của mái nhà chung AT&T vào năm 1994.

Apple Newton (1993)
Newton MessagePad là một máy tính bảng đúng nghĩa đầu tiên của Apple, được đặt tên dựa vào sự liên tưởng giữa “quả táo cắn dở” – Apple và Issac Newton. Ban đầu nhóm nghiên cứu Newton đặt tên là Figaro và dự tính nhồi nhét tất cả các tính năng hiện đại lúc bấy giờ vào sản phẩm, bất kể kích thước và chi phí. Newton MessagePad sử dụng chip ARM 620 tốc độ 20MHz, 640K RAM với độ phân giải 336 x 240 pixel. Hầu hết, mọi người đều nhìn nhận Apple Newton là một sản phẩm mang tính cách mạng, đã làm thay đổi nhiều về những suy nghĩ trước đó. Nhưng do giá thành khá đắt, cộng thêm thiết kế cồng kềnh nên Newton không được nhiều người đón nhận, buộc phải chấm dứt vào năm 1998.

Microsoft Tablet PC (2002)
Bill Gates đã tự tin nói ý tưởng về chiếc máy tính bảng của hãng trong một bài diễn thuyết tại Comdex, đã có một phát biểu mang tính chất thời đại: “Tiềm năng của máy tính bảng gần như là vô hạn”. Và kỷ nguyên của máy tính bảng đã thực sự bắt đầu khi Microsoft giới thiệu chiếc Tablet PC đầu tiên vào năm 2001, với hệ điều hành dành riêng cho nó gọi là Windows XP Tablet PC Edition. Microsoft Tablet PC được trang bị hệ thống nhận dạng chữ viết tay với đầy đủ các tính năng của một máy tính thông thường: CPU 500 đến 600MHz, RAM 128MB, ổ cứng 10GB và cổng USB. Tablet PC được bán ra thị trường vào năm 2002 nhưng thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa cao.

Apple iPad (2010)
Apple đã cho ra mắt máy tính bảng iPad vào tháng 4 năm 2010, với màn hình rộng 9,7inch, chip xử lý mạnh mẽ ARM A4 1GHz, thời lượng pin lên đến 10 giờ và thư viện ứng dụng khổng lồ. Không còn gì để bàn về sự thành công của iPad, chỉ ngoài một điều là iPad đã thống trị thị trường máy tính bảng. Một báo cáo gần đây của comScore đã tập trung vào lượng người dùng iPad ở 13 quốc gia trên thế giới, nhận thấy số lượng người dùng iPad ở Ấn Độ là thấp nhất nhưng vẫn ở mức 89%. Mặc dù, sức cạnh tranh không ngừng gia tăng từ các hãng và các hệ điều hành khác nhưng Apple iPad vẫn giữ được vai trò lãnh đạo trong cơn sốt toàn cầu như hiện nay.

One Laptop Per Child XO-3 (2012)
Nhà thiết kế Yves Behar đã giới thiệu những hình ảnh và chi tiết về ý tưởng chiếc máy tính bảng hoàn toàn mới mang tính chất cách mạng và sẽ được trình làng vào năm 2012 trong dự án One Laptop Per Child. XO-3 có thiết kế mỏng, đẹp, kích thước màn hình cảm ứng LCD 8 -11 inch (màn hình này mang tên Pixel Qi giúp tiết kiệm tối đa điện năng tiêu thụ), sử dụng bộ vi xử lý di động dòng ARM hoặc dòng chip tiết kiệm điện U-series của VIA, camera phía sau và nhiều tính năng giải trí.

Máy tính bảng này sử dụng các phần mềm mã nguồn mở nhằm giảm thiểu giá thành sản phẩm. XO-3 được xếp vào dòng máy tính giá rẻ phục vụ mục đích phổ cập tin học cho trẻ em ở các nước đang phát triển nên giá sản xuất sẽ dao động từ khoảng 75USD đến 150 USD. Có thể nói XO-3 đang tiến gần đến ý tưởng Dynabook của Alan Kay.